Luật Kinh doanh bất động sản 2024 có hiệu lực từ ngày 1/8 : Tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, cá nhân kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ thì không phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất động sản nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật.
Tại Điều 9, Luật Kinh doanh bất động sản 2024 quy định về điều kiện đối với tổ chức, cá nhân khi kinh doanh bất động sản.
Theo đó, tại Khoản 1, Điều 9 quy định tổ chức, cá nhân khi kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật về hợp tác xã, có ngành, nghề kinh doanh bất động sản (gọi chung là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản).
Tuy nhiên, có 2 trường hợp không phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất động sản được quy định tại khoản 3 và 4 Điều 9.
Theo dự thảo Nghị định hướng dẫn của Bộ Xây dựng, có 3 trường hợp để xác định cá nhân kinh doanh bất động quy mô nhỏ, không phải lập doanh nghiệp gồm: Thứ nhất là cá nhân bán, chuyển nhượng cho thuê nhà ở có sẵn, nhà hình ở hình thành trong tương lai từ 3 – 5 năm hoặc căn hộ trong một năm. Thứ hai là cá nhân kinh doanh bất động sản có diện tích từ 1.000 – 2.000m2 đất tại đô thị. Thứ ba là cá nhân đầu tư xây dựng nhà ở riêng lẻ từ 2 tầng trở lên, quy mô dưới 20 căn hộ. Tuy nhiên, các trường hợp này phải kê khai nộp thuế.
Cụ thể, trường hợp 1, cá nhân kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ thì không phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất động sản nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật.
Trường hợp 2, tổ chức, cá nhân bán nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng không nhằm mục đích kinh doanh hoặc bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng dưới mức quy mô nhỏ thì không phải tuân thủ các quy định của Luật này nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật; trường hợp cá nhân bán, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng thì còn phải thực hiện công chứng, chứng thực theo quy định tại khoản 5 Điều 44 của Luật này.
Bên cạnh đó, trường hợp tổ chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ bất động sản phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bất động sản thì phải đáp ứng các điều kiện dưới đây.
Một
Không trong thời gian bị cấm hoạt động kinh doanh bất động sản, bị tạm ngừng, bị đình chỉ hoạt động theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Bảo đảm tỷ lệ dư nợ tín dụng, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp trên số vốn chủ sở hữu.
Hai
Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thông qua dự án bất động sản phải có vốn chủ sở hữu không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 ha trở lên và phải bảo đảm khả năng huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư.
Ba
Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đồng thời thực hiện nhiều dự án thì phải có vốn chủ sở hữu đủ phân bổ để bảo đảm tỷ lệ nêu trên của từng dự án để thực hiện toàn bộ các dự án.